Nghề dịch Hán-Nôm tại Đà Nẵng đang dần mai một, chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay. Những bậc cao niên am hiểu lĩnh vực này tuy đã ở tuổi xưa nay hiếm, nhưng di sản họ để lại là những cuốn sách được dịch, viết công phu, hàm súc, cho thấy sự trăn trở, tỉ mỉ với từng con chữ để truyền tải trọn vẹn ý nghĩa của ngôn từ.
Contents
Sự khó khăn và tinh tế trong việc dịch thuật Hán Nôm đòi hỏi người dịch không chỉ am hiểu ngôn ngữ mà còn phải nắm vững lịch sử, văn hóa và cả những câu chuyện ẩn sau từng con chữ.
mâm cúng thôi nôi bé trai cũng giống như việc dịch Hán Nôm, đều cần sự tỉ mỉ và hiểu biết sâu sắc về văn hóa.
Thách Thức Của Việc “Ý Tại Ngôn Ngoại”
Dịch thuật vốn dĩ đã là một nghệ thuật đòi hỏi sự tinh tế, bởi lẽ việc chuyển tải ngôn ngữ từ văn bản gốc sang một ngôn ngữ khác luôn tiềm ẩn nguy cơ làm mất đi ý nghĩa đích thực. Đặc biệt, dịch thơ, văn hoặc các văn bản Hán Nôm sang tiếng Việt lại càng khó khăn hơn bội phần. Bởi lẽ, trong văn chương cổ, việc sử dụng điển tích, điển cố, hay phương pháp “ý tại ngôn ngoại” là điều thường thấy. Điều này đòi hỏi người dịch phải dày công nghiên cứu, tìm tòi tài liệu liên quan để vừa dịch sát nghĩa, vừa chú thích rõ ràng, giúp người đọc dễ dàng tiếp cận và hiểu được nội dung một cách trọn vẹn nhất.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy, trong quá trình biên soạn cuốn sách 800 trang về vụ kiện của dân làng Nghi An (Phước Tường, Đà Nẵng) năm 1904, đã phải làm việc với rất nhiều văn bản chữ Hán, chữ Nôm và tiếng Pháp. Đơn kiện được viết bằng chữ Nôm, trong khi hồ sơ vụ án lại bằng tiếng Pháp và được lập biên bản hai lần. Đặc điểm của chữ Nôm là dùng Hán tự để biểu đạt tiếng Việt, nên người dịch phải đặt từng chữ, từng câu vào đúng ngữ cảnh mới có thể hiểu được nghĩa gốc. Hơn nữa, việc đọc theo ngữ âm của từng vùng miền, từ Bắc chí Nam, cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình dịch thuật. Ông Duy chia sẻ, có những chữ dù đã được dịch, ông vẫn cẩn thận tra cứu từ điển, tham khảo ý kiến của nhiều người để chắc chắn tìm ra nghĩa chính xác nhất trước khi đưa vào bản dịch cuối cùng.
văn khấn đầy tháng bé gái cũng như chữ Nôm, mang đậm dấu ấn văn hóa vùng miền.
Học Mười Mới Dịch Được Một
Không chỉ chữ Nôm, chữ Hán cũng có rất nhiều thành ngữ. Vì vậy, người dịch phải am hiểu thành ngữ Hán cũng như của các dân tộc khác ở Trung Quốc. Ông Nguyễn Sinh Duy cũng như nhiều nhà dịch thuật khác đều đồng nhất quan điểm: muốn dịch tốt, dù già hay trẻ, đều phải học hỏi không ngừng, đọc nhiều, tích lũy kiến thức. Bởi “biết mười mới dịch được một”. Nhà dịch thuật Thái Trọng Lai (Ngô Văn Lại) đã phát hiện ra nhiều câu tục ngữ, thành ngữ tiếng Việt ít được biết đến khi dịch một bài thơ của vua Tự Đức. Ví dụ như câu thơ “Gió thu rụng lá ngô đồng/Mưa xuân ướt đầm lá hẹ” được in trên một bản sách bằng đồng tại Bảo tàng huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Mãi 10 năm sau, ông mới hiểu được ý nghĩa của câu thơ này qua câu ca dao “Mưa lâm thâm ướt đầm lá hẹ/Ta thương người có mẹ không cha“, thể hiện nỗi niềm của vua Tự Đức dành cho người chú ruột mồ côi cha từ nhỏ.
văn khấn cúng thôi nôi be gái cũng chứa đựng nhiều tầng nghĩa văn hóa cần được giải mã.
Dịch Thuật – Một Hành Trình Nghiên Cứu Không Ngừng
Việc dịch thuật, khám phá văn chương cũng giống như nghiên cứu khoa học, đôi khi chỉ một chữ, một câu, hay một đoạn văn cũng đủ khiến người dịch trăn trở nhiều tháng, nhiều năm mới hiểu được ý nghĩa sâu tầng mà tác giả muốn gửi gắm. Theo ông Ngô Văn Lại, ngoài việc dịch sát nghĩa, việc chú thích cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng, và “dịch thì tài phải ngang hoặc hơn tác giả thì mới được xem là đạt”.
Dịch thuật cũng đòi hỏi sự kiểm chứng kỹ lưỡng, thử đi thử lại nhiều lần để đạt được kết quả cuối cùng chính xác và hợp lý. Ông Ngô Văn Lại ví von “khi dịch, phải lấy cái đầu mình ra mà chơi”, ý chỉ sự linh hoạt, ứng biến trong quá trình dịch, để chuyển tải ngôn từ một cách mượt mà, tự nhiên. Theo ông, dịch thơ là khó nhất, vì phải đảm bảo giữ được vần điệu của bài thơ gốc.
đinh ninh là gì – tìm hiểu nghĩa của từ ngữ cũng là một phần quan trọng trong quá trình dịch thuật.
Từ Văn Bia Đến Sử Học
Ông Nguyễn Sinh Duy cho rằng dịch văn bia, đặc biệt là bia chữ Nôm, là khó nhất, bởi người dịch cần phải suy nghĩ kỹ càng, thấu đáo mới có thể nắm bắt được mạch văn của người viết, với đặc trưng cô đọng, hàm súc. Khi dịch tấm bia 345 chữ ở Lai Viễn kiều (chùa Cầu, Hội An), ông đã phải nhiều lần đến tận nơi để quan sát, ghi chép, sờ từng chữ trên bia để đảm bảo tính chính xác cho bản dịch.
Năm 1961, khi còn là sinh viên Đại học Sư phạm Huế, ông Ngô Văn Lại may mắn được tiếp cận 1.299 tài liệu chữ Hán của dòng tộc Ngô Gia văn phái, và đây cũng là bước ngoặt đưa ông đến với nghề dịch thuật. Ông là người đầu tiên dịch bài ký “Chinh tây kỹ hành” của vua Lê Thánh Tông và được biết đến là người dịch nhiều thơ văn của các vua chúa, quan lại, đặc biệt là thơ của Cao Bá Quát. Ông tâm đắc nhất với hai bài thơ “Sương hoặc tam thập vận” và “Nhàn cư xuân giản chư hữu” của Cao Bá Quát, cùng bản dịch cuốn tự truyện “Văn nghị công niên biểu” của Trần Tiễn Thành. Ở tuổi 77, ông cảm thấy mãn nguyện với những cống hiến của mình cho sự nghiệp dịch thuật.
Đối với nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy, dịch thuật giúp ông hiểu rõ hơn về tài liệu khi nghiên cứu sử học. Những văn bia, văn bản Hán Nôm đã giúp ông hiểu sâu hơn về lịch sử quê hương Quảng Nam. Ông cũng bày tỏ sự tiếc nuối khi những cuốn sách do ông dịch, viết chưa nhận được nhiều phản hồi từ độc giả và các nhà dịch thuật.
bài cúng các bác cũng như văn bia chữ Hán Nôm, đều là những di sản văn hóa cần được gìn giữ và truyền bá.
Kết Luận
Việc dịch chữ Hán Nôm không chỉ đơn thuần là chuyển đổi ngôn ngữ mà còn là hành trình khám phá, gìn giữ và lan tỏa những giá trị văn hóa, lịch sử. Đòi hỏi người dịch phải có kiến thức sâu rộng, sự tâm huyết và lòng đam mê với ngôn ngữ, văn hóa. Hy vọng rằng, trong tương lai, sẽ có nhiều hơn nữa những người trẻ tiếp bước cha anh, gìn giữ và phát triển nghề dịch thuật Hán Nôm, góp phần bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa quý báu của dân tộc.